Lịch sử khái niệm Lời tiên tri tự hoàn thành

Khái niệm của Merton về lời tiên tri tự hoàn thành bắt nguồn từ định lý Thomas, "Nếu con người định nghĩa hoàn cảnh/hiện tượng là có thật, thì hoàn cảnh/hiện tượng đó có thật theo hệ quả của định nghĩa ấy." [3] Theo Thomas, con người không chỉ phản ứng với những hoàn cảnh quanh họ mà thường còn phản ứng với cách họ nhận thức hoàn cảnh và ý nghĩa của những nhận thức trên. Vì vậy, hành vi của họ được quy định một phần bởi sự nhận thức và ý nghĩa họ gán cho hoàn cảnh gặp phải, hơn là bởi chính hoàn cảnh đó. Một khi con người thuyết phục được chính mình rằng một hoàn cảnh có một ý nghĩa nhất định, mặc dù điều này có thể không đúng, người đó sẽ đưa ra hành động thật sự như một hệ quả.

Merton phân tích khái niệm này sâu hơn và áp dụng nó vào những hiện tượng xã hội gần đây. Trong cuốn sách Lý thuyết và Cấu trúc xã hội, Merton giả định một đột biến rút tiền gửi một ngân hàng do Carwright Millingville làm chủ tịch. Đó là một ngân hàng thông thường, và Millingville điều hành nó một cách trung thực và đúng mực. Kết quả là, cũng giống như bất kì ngân hàng nào khác, nó có một lượng tài sản lưu động (tiền mặt), nhưng phần lớn tài sản ngân hàng được dùng để đầu tư. Một ngày nọ, một số lượng lớn khách hàng đến ngân hàng cùng một lúc - không ai biết lý do tại sao. Những khách hàng khác thấy nhiều người đến ngân hàng bèn lo lắng. Những tin đồn thất thiệt về ngân hàng bắt đầu lan ra và ngày càng nhiều khách hàng đổ xô tới ngân hàng để lấy lại tiền của họ khi còn có thể. Số lượng khách hàng đến đòi nợ tăng, cũng như sự khó chịu và háo hức của họ, càng làm cho lời đồn về khả năng thanh khoản kém và ngân hàng phá sản có cơ sở. Đầu ngày hôm đó, cũng là ngày cuối cùng của ngân hàng của Millingville, ngân hàng không hề ở trong tình trạng thanh khoản kém. Nhưng những tin đồn về năng lực ngân hàng đã tạo nên một nhu cầu rút tiền đột ngột của quá nhiều khách hàng, điều mà ngân hàng không thể đáp ứng được, làm cho ngân hàng không có khả năng thanh khoản nữa và lâm vào phá sản. Merton kết luận ví dụ này bằng phân tích sau:

Truyện ngụ ngôn trên có ý nghĩa rằng định nghĩa của đại chúng về một hoàn cảnh (lời tiên tri hay dự đoán) trở thành một phần của hoàn cảnh và vì thế sẽ tác động tới sự phát triển sau này. Điều dị thường này chỉ xuất hiện ở con người. Hiện tượng này không xuất hiện trong thế giới tự nhiên không có tác động của con người. Dự đoán về sự trở lại của sao chổi Halley không ảnh hưởng tới quỹ đạo của nó. Nhưng tin đồn về tính thanh khoản của ngân hàng Milingville có ảnh hưởng thực sự đến kết quả câu chuyện. Lời tiên đoán về sự sụp đồ đã tự hoàn thành chính nó.[4]

Merton kết luận rằng cách duy nhất để phá vỡ cấu trúc vòng lặp của lời tiên tri tự hoàn thành là định nghĩa lại những mệnh đề dùng để đưa ra giả định sai lầm.

Theo "mô hình kì vọng" của lạm phát trong Kinh tế học, những kỳ vọng vào sự lạm phát trong tương lai làm cho con người tiêu nhiều tiền hơn ở hiện tại và yêu cầu một lãi suất danh nghĩa cao hơn cho các khoản tiết kiệm, vì họ trông đợi rằng giá cả sẽ tăng lên. Nhu cầu về một lãi suất danh nghĩa cao hơn và sự tăng lên của tiêu dùng trong hiện tại lại tạo nên một sức ép lạm phát và có thể tạo nên lạm phát thực sự bất chấp kì vọng vào lạm phát trong tương lai là không có cơ sở. Lý thuyết về sự kì vọng có vai trò quan trọng trong những chính sách của Paul Volcker khi còn tại vị Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Hoa Kỳ) nhằm đối phó với tình trạng "lạm phát đình đốn".

Nhà triết học Karl Popper gọi lời tiên tri tự hoàn thành là hiệu ứng Oedipus:

Một trong những ý tưởng tôi đề cập trong Sự nghèo đói của Chủ nghĩa lịch sử là ảnh hưởng của lời dự đoán lên những sự kiện được dự đoán sẽ xảy ra. Tôi gọi nó là "Hiệu ứng Oedipus", bởi nhà tiên tri có vai trò quan trọng nhất trong chuỗi các sự kiện dẫn đến sự hoàn thành của lời tiên tri.... Có giai đoạn tôi đã nghĩ sự tồn tại của hiệu ứng Oedipus làm phân biệt khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Nhưng trong sinh học, thậm chỉ cả sinh học phân tử, sự kì vọng thường có vai trò tạo nên những điều được kì vòng trước đó.[5]

Một khái niệm trước đó xuất hiện trong Sự đi xuống và sụp đổ của đế chế La Mã của Edward Gibbon: "Trong nhiều thời đại, sự tiên đoán, như thường lệ, đóng góp tới sự thành bại của chính nó" (chương I, phần II).

Ứng dụng

Có rất nhiều ví dụ trong những nghiên cứu về lý thuyết của sự bất hoà nhận thứclý thuyết của sự tự nhận thức; con người thường thay đổi thái độ để phù hợp vời những lời họ dự đoán công khai.

Tại Hoa Kỳ, khái niệm này đã được sử dụng rộng rãi và liên tục được ứng dụng trong lĩnh vực cải cách giáo dục đại chúng, theo "Cuộc chiến chống nghèo đói". Theodore Brameld viết rằng: "Đơn giản nhất, giáo dục đã đưa ra và vì thế củng cố những tập quán mà cuộc sống cá nhân và cuộc sống văn hoá cho là chấp nhận được và chiếm ưu thế."[6] Ảnh hưởng của thái độ giáo viên, niềm tin và giá trị, tới kì vọng đã được kiềm chứng nhiều lần.[7]

Hiện tượng "chiến tranh không tránh khỏi" là một lời tiên tri tự hoàn thành đã được nghiên cứu sâu.[8]

Ý tưởng này tương tự như ý tưởng được nhà triết học William James nhắc tới trong Ý chí để tin tưởng. Nhưng James cho rằng hiện tượng này mang ý nghĩa tích cực, như là tự xác nhận của niềm tin. Cũng như trong ví dụ của Merton, niềm tin ngân hàng thanh khoản kém có thể đã góp phần tạo nên thực tế, vì thế theo một hướng tích cực, sự tin tưởng vào triển vọng của ngân hàng có thể làm ngân hàng kinh doanh tốt hơn. Một ví dụ nữa của James: một chàng nhà quê, tin rằng thiếu nữ xinh đẹp chắc chắn đã yêu anh ta, có thể sẽ làm cho nỗ lực chinh phục hiệu quả hơn là khi anh ta tin theo điều ngược lại.

Có rất nhiều bằng chứng cho "Hiệu ứng kì vọng giữa các cá nhân" khi những kì vọng riêng tư của cá nhân có thể dự đoán được kết quả của thế giới xung quanh họ. Cơ chế của hiện tượng này được hiểu khá rõ: chỉ bởi sự kì vọng của chúng ta đã thay đổi hành vi theo một cách đúng đắn mà chúng ta không để ý tới. Trong trường hợp của "Hiệu ứng kì vọng giữa các cá nhân", những người khác nhận biết được những hành vi phi ngôn ngữ và hành vi của họ vì thế cũng bị thay đổi theo. Trong một ví dụ nổi tiếng, giáo viên được thông báo về những học sinh tiềm năng trong lớp học (những học sinh này được lựa chọn ngẫu nhiên). Điều kì lạ là vào cuối năm học, những học sinh được chọn ngẫu nhiên này đã có những tiến bộ vượt bậc.[9]

Những ví dụ khác được nói đến trong tâm lý học bao gồm:

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lời tiên tri tự hoàn thành http://www2.psych.ubc.ca/~schaller/Psyc591Readings... http://www.canada.com/montrealgazette/story.html?i... http://www.rugbyiq.com/index.php?option=com_conten... http://www.skepdic.com/lawofattraction.html //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/11534065 //dx.doi.org/10.1002%2F1520-6300(200011%2F12)12:6%... //dx.doi.org/10.1111%2F1467-8721.t01-1-01250 //dx.doi.org/10.2307%2F2112523 //dx.doi.org/10.2307%2F4609267 //www.jstor.org/stable/2112523